HỘI NÔNG DÂN CƠ SỞ
VỚI CÔNG TÁC HÒA GIẢI
Văn bản: Luật Hòa giải ở cơ sở được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 20/6/2013, có hiệu lực từ ngày 1/1/2014.
- Nghị định số 15/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Khái niệm:
Khoản 1 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định: Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này.
2. Tầm quan trọng của công tác hoà giải ở cơ sở:
- Hoà giải ở cơ sở có tác dụng tích cực, thiết thực giúp các bên tự nguyện giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn một cách hiệu quả, có lý, có tình vừa hạn chế, khắc phục được hậu quả đáng tiếc xảy ra, vừa giữ gìn được tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm, đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
- Hoà giải có tác dụng cơ bản là giải quyết kịp thời ngay từ đầu các tranh chấp, mâu thuẫn không để “việc đơn giản thành việc phức tạp”, ngăn ngừa những vi phạm pháp luật có thể nảy sinh từ các tranh chấp, góp phần hạn chế khiếu kiện, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra chính quyền hoặc Toà án giải quyết qua đó tiết kiệm thời gian, tiền của của nhân dân và Nhà nước.
- Hoạt động hòa giải ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân. Bằng việc vận dụng những quy định của pháp luật để giải thích, phân tích, thuyết phục các bên tranh chấp, tổ viên tổ hòa giải góp phần nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
3. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở
Theo quy định tại Điều 4 Luật Hòa giải ở cơ sở thì việc hoà giải ở cơ sở được tiến hành theo các nguyên tắc sau:
1. Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở.
2. Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi.
3. Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 10 của Luật này (Thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có biện pháp phòng ngừa trong trường hợp thấy mâu thuẫn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng. Thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự).
4. Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
5. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.
6. Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.
4. Phạm vi hòa giải
Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở quy định:
Việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp sau đây:
a) Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
b) Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải;
c) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính;
d) Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định pháp luật.
Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở quy định về phạm vi hòa giải ở cơ sở như sau:
1. Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây:
a) Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác);
b) Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
c) Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn;
d) Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính;
đ) Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây:
Không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 107 của Bộ luật tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố theo quy định tại Khoản 1 Điều 105 của Bộ luật tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo quy định tại Khoản 2 Điều 164 của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Khoản 1 Điều 169 của Bộ luật tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
e) Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II Phần thứ năm của Luật xử lý vi phạm hành chính;
g) Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
2. Không hòa giải các trường hợp sau đây:
a) Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
b) Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội;
c) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều này;
d) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi phạm hành chính, trừ các trường hợp quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều này;
đ) Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 3 của Luật hòa giải ở cơ sở, bao gồm:
Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo quy định của Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành;
Hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành.
5. Căn cứ tiến hành hòa giải (Điều 16 Luật hòa giải ở cơ sở)
Hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây:
1. Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải;
2. Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải;
3. Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
II. HỘI NÔNG DÂN VỚI CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1. Những căn cứ để Hội Nông dân cơ sở thực hiện hoạt động hòa giải:
- Theo quy định Luật Hoà giải ở cơ sở năm 2013 và Nghị định số 15/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở thì các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
- Chỉ thị 26/2001/CT-TTg ngày 9/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo của nông dân đã chỉ rõ vai trò của Hội Nông dân Việt Nam các cấp trong việc phối hợp với Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoà giải những tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nông dân, giải quyết ngay tại cơ sở, không để xảy ra các điểm nóng và khiếu kiện vượt cấp, kéo dài.
- Công văn số 1502/TTg-V.II của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/10/ 2007 về việc tăng cường phối hợp với Hội Nông dân các cấp để giải quyết khiếu nại tố cáo của nông dân yêu cầu “Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp cần chủ động và tăng cường hơn nữa việc phối hợp với Hội Nông dân cùng cấp trong việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, tiến hành các biện pháp hòa giải, giải quyết mâu thuẫn ngay tại cơ sở, không để khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài, vượt cấp”.
- Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam quy định:
+ Chi Hội Nông dân thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, vận động hoà giải tranh chấp trong nội bộ nông dân (Điều 14).
+ Tổ Hội Nông dân vận động hội viên, nông dân xây dựng gia đình văn hoá, giữ gìn an ninh trật tự, hoà giải những vụ tranh chấp của hội viên, nông dân (Điều 16).
2. Nhiệm vụ của Hội Nông dân cơ sở trong công tác hoà giải:
- Phối hợp chặt chẽ với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc xây dựng, củng cố Tổ hoà giải và các tổ chức hoà giải khác của nhân dân trong cộng đồng dân cư.
- Tổ chức thực hiện hòa giải.
- Tổ chức trao đổi kinh nghiệm, thảo luận các giải pháp để tiến hành hòa giải vụ, việc phức tạp.
- Phối hợp với Ban công tác Mặt trận, Chi hội phụ nữ, Chi đoàn thanh niên, Chi hội cựu chiến binh, Chi hội người cao tuổi, các tổ hòa giải và tổ chức, cá nhân khác trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.
- Kiến nghị với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Uỷ ban nhân dân cấp xã về hoạt động hòa giải ở cơ sở, các điều kiện cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.
- Đề nghị khen thưởng tổ hòa giải, hòa giải viên có thành tích xuất sắc trong công tác hòa giải.
* HND cơ sở trực tiếp hoà giải những trường hợp:
Đối tượng hoà giải là cán bộ Hội, hội viên, nông dân có mâu thuẫn nhỏ, xích mích giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ xóm giềng, có tranh chấp đơn giản về quyền và lợi ích phát sinh từ quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình…
* HND cơ sở tham gia hoà giải những trường hợp:
- Đối tượng không phải là cán bộ Hội, hội viên, nông dân.
- Những vụ việc mâu thuẫn phức tạp.
3. Những hình thức thực hiện công tác hoà giải của HND cơ sở:
Trong quá trình hoà giải, HND cơ sở áp dụng những hình thức hoà giải linh hoạt như:
- Thông qua đối thoại trực tiếp với nông dân, giải thích chủ trương, chính sách để đương sự giải hoà với nhau.
- Thông qua sinh hoạt chi, tổ Hội làm rõ các mâu thuẫn, vướng mắc của các bên, hướng dẫn nông dân thông cảm tự giải quyết với nhau.
- Thông qua tuyên truyền, giáo dục pháp luật sát với nội dung vụ việc đang có mâu thuẫn, giải thích, hướng dẫn, tư vấn pháp lý để các bên tự hoà giải.
- Thông qua những người có uy tín với các bên để vận động, thuyết phục.
- Hội Nông dân phối hợp với chính quyền, mặt trận hoà giải khi phát sinh mâu thuẫn giữa nông dân với nông dân.
4. Hoạt động hoà giải có thể tiến hành trước, trong và sau khiếu kiện:
- Hoà giải trước khiếu kiện là việc vận động các bên hoà giải tự thoả thuận, không để xảy ra khiếu kiện hành chính.
- Hoà giải trong khiếu kiện là việc vận động các bên bình tĩnh, giữ ổn định tình hình, không nôn nóng, chờ cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
- Hoà giải sau khiếu kiện là việc vận động các bên thực hiện nghiêm túc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
5. Các bước khi tiến hành hoà giải:
Khi tiến hành hoà giải 1 vụ việc gồm có 3 bước là:
- Trước khi tổ chức hoà giải
- Trong khi hoà giải
- Kết thúc hoà giải
5.1. Trước khi tổ chức hoà giải, cán bộ chi, tổ Hội cần phải thực hiện những công việc sau:
- Làm dịu tình hình căng thẳng giữa các bên: khi xảy ra vụ việc tranh chấp xích mích, cán bộ hoà giải cần có mặt kịp thời gặp gỡ các đối tượng để can ngăn, dàn xếp, thuyết phục các bên bình tĩnh, tránh để xảy ra cãi cọ, xô sát.
- Tiến hành thu thập thông tin, xác minh nhanh nguyên nhân gây ra vụ việc.
- Lựa chọn địa điểm, thời gian phù hợp để tiến hành hòa giải.
- Hội ý nhanh trong cán bộ chi, tổ Hội, tổ hoà giải, đối chiếu các tình tiết vụ việc với các quy định của pháp luật, làm rõ đúng sai, bàn biện pháp hoà giải, phân công các cán bộ Hội tiếp xúc đương sự để hoà giải. Nếu gặp vụ việc phức tạp thì báo cáo lên Ban Thường vụ HND cơ sở biết để chỉ đạo giải quyết.
5.2. Trong khi hoà giải, cán bộ chi, tổ Hội cần tiến hành các công việc sau:
- Hòa giải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói với sự có mặt của các bên. Trong trường hợp các bên có người khuyết tật thì có sự hỗ trợ phù hợp để có thể tham gia hòa giải.
- Hòa giải được tiến hành công khai hoặc không công khai theo ý kiến thống nhất của các bên.
- Tùy thuộc vào vụ, việc cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân, cán bộ hòa giải áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giúp các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ, việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, cán bộ hòa giải hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Cán bộ hòa giải có trách nhiệm ghi nội dung vụ, việc hòa giải vào Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Việc hòa giải không bắt buộc phải lập thành văn bản hòa giải. Trong trường hợp các bên có yêu cầu hoặc được các bên đồng ý, cán bộ hòa giải lập văn bản hòa giải. Văn bản hòa giải chỉ là sự ghi lại thỏa thuận giữa các bên, mang ý nghĩa đạo lý, danh dự và tạo nên một sự ràng buộc về mặt đạo lý và tâm lý giữa các bên. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực cụ thể pháp luật có quy định thì cần lập văn bản hòa giải để làm chứng cứ pháp lý nếu như vụ việc phải đưa ra Tòa án giải quyết.
5.3. Kết thúc hoà giải:
- Các bên đạt được thỏa thuận.
- Một bên hoặc các bên yêu cầu chấm dứt hòa giải.
- Hòa giải viên quyết định kết thúc hòa giải khi các bên không thể đạt được thỏa thuận và việc tiếp tục hòa giải cũng không thể đạt được kết quả.
* Hoà giải thành: Việc hòa giải kết thúc và được coi là hòa giải thành khi các bên đã đạt được thoả thuận và tự nguyện thực hiện thoả thuận đó. Tổ hoà giải có thể đề nghị với chính quyền xã và đoàn thể ở thôn, xóm, ấp, bản tạo điều kiện để các bên thực hiện thoả thuận.
- Các bên có thể thỏa thuận lập văn bản hòa giải thành gồm các nội dung chính sau đây:
+ Căn cứ tiến hành hòa giải;
+ Thông tin cơ bản về các bên;
+ Nội dung chủ yếu của vụ, việc;
+ Diễn biến của quá trình hòa giải;
+ Thỏa thuận đạt được và giải pháp thực hiện;
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên;
+ Phương thức, thời hạn thực hiện thỏa thuận;
+ Chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và của hòa giải viên.
- Thực hiện thỏa thuận hòa giải thành:
+ Các bên có trách nhiệm thực hiện thỏa thuận hòa giải thành.
+ Trong quá trình thực hiện thỏa thuận hòa giải thành, nếu một bên vì sự kiện bất khả kháng không thể thực hiện được thì có trách nhiệm trao đổi, thỏa thuận với bên kia và thông báo cho hòa giải viên.
- Theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành
Hòa giải viên có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành do mình trực tiếp giải quyết; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác Mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện.
* Hoà giải không thành: Việc hòa giải không thành khi các bên không đạt được thoả thuận và việc tiếp tục hòa giải không thể đạt kết quả.
- Giải quyết trường hợp hòa giải không thành
+ Trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận và cả hai bên yêu cầu tiếp tục hòa giải, thì hòa giải viên tiếp tục tiến hành hòa giải.
+ Trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận và một bên yêu cầu tiếp tục hòa giải, nhưng có căn cứ cho rằng việc tiếp tục hòa giải không thể đạt kết quả thì hòa giải viên quyết định kết thúc hòa giải và hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp các bên yêu cầu lập văn bản hòa giải không thành, thì hòa giải viên lập văn bản, ghi rõ thông tin cơ bản về các bên; nội dung chủ yếu của vụ, việc; yêu cầu của các bên; lý do hòa giải không thành; chữ ký của hòa giải viên.
Trong trường hợp này, các bên có quyền yêu cầu tiếp tục hòa giải theo quy định của pháp luật.
Đối với tranh chấp phức tạp, mâu thuẫn giữa các bên gay gắt, có thể gây hậu quả xấu, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự địa phương thì cán bộ hòa giải kịp thời báo cáo Tổ trưởng Tổ hòa giải để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có biện pháp giải quyết.
----------